THOÁI HOÁ XƯƠNG SỤN Ở KHỚP GỐI

 Vincent Chassaing (Phẫu thuật viên chỉnh h́nh)

Dominique Lucas (bác sĩ thể thao)

Jacques Parier (bác sĩ thể thao)

 

Bệnh biểu hiện một t́nh trạng bất thường của tạo can xi ở xương nằm dưới lớp sụn. Trong thời kỳ đầu, thương tổn chỉ đơn thuần ở xương và biến đổi thành sẹo. Nếu phần ở dưới của xương mà biến đổi về cấu trúc, th́ lúc đó chuyển sang thời kỳ hai, sụn bị thương tổn.

Viêm xương sụn bóc tách (ostéochondrite disséquante)

Là một bệnh có h́nh ảnh  giải phẫu cũng như điện quang đặc biệt, do t́nh trạng bệnh lư của xương nằm dưới sụn, tổn thương rất khu trú và tiến triển trở thành mảnh xương chết nhỏ, thông thường có kích thước khoảng 2 cm. Hiện ngay ,các tranh luận đều cho rằng , nếu viêm xương sụn bóc tách lan rộng, th́ nó dẫn tới t́nh trạng tách hẳn mảnh xương sụn ra hoặc tạo nên một h́nh thái lâm sàng tiến triển gọi là thoái hoá xương sụn.(ostéochondrose)

 

Người ta c̣n chưa biết nguồn gốc chính xác của bệnh này, có nhiều nguyên nhân được đưa ra:

-         Nguyên nhân chấn thương:

Những chấn thương nhỏ nhắc lại nhiều lần, đặc biệt là do các hoạt động thể lực nặng, có thể là yếu tố thuận lợi cho viêm xương sụn.

-         Nguyên nhân mạch máu:

Thoái hoá xương sụn có thể là kết quả của thiếu máu khu trú ở xương.

Bệnh lư này của gối có liên quan trực tiếp với sụn phát triển.  Xuất hiện và biểu hiện bệnh thường ở lứa tuổi từ 8 đến 20.

 

Biểu hiện bệnh thoái hoá xương sụn

Phần lớn bệnh không được phát hiện v́ không có triệu chứng đau. Nó tiến triển không rầm rộ, không triệu chứng, theo hướng tự khỏi. Đôi khi chụp phim thường v́ các  bệnh khác mà lại t́nh cờ phát hiện ra chẩn đoán.

  Bệnh biểu hiện bằng các triệu chứng : đau, tràn dịch khớp, đi cà nhắc, hay có những dấu hiệu của cản trở trong khớp: sờ thấy dị vật, kẹt khớp do những mảnh xương sụn bị bong ra của quá tŕnh viêm xương sụn bóc tách.

Thông thường hơn cả là sự hạn chế biên độ vận động, mất đi duỗi hay gấp gối hoàn toàn.

Chẩn đoán chỉ được đưa ra sau khi  chụp phim điện quang. Chụp phim thẳng nghiêng, trục 30 độ. Chụp phim lồi cầu rất cần cho trẻ  em.

Các xét nghiệm khác cũng rất có giá trị, cần phải tập trung vào nơi thương tổn, để đánh giá giai đoạn của thoái hoá .Chụp gối cản quang cắt lớp để t́m thương tổn trên bề mặt sụn. IRM cho phép nh́n được sâu vào bên trong của xương. Không cần phải dung nội soi để chẩn đoán, nhưng dùng nó để điều trị.

Điện quang cho phép đánh giá tiến triển của bệnh

Lúc đầu, xuất hiện vùng nhỏ đậm vôi hơn, không đều so với xung quanh,  đó là giai đoạn I

 

Trong khi đó, giai đoạn II tổn thương  bị cô lập, chu vi  xung quanh trở nên rơ nét.

Giai đoạn III, vành sáng  rộng hơn, mảnh xương trở nên đặc hơn.

Giai đoạn IV khi có sự bóc tách hoàn toàn, mảnh xương sụn rơi vào trong khớp tạo nên di vật.

Tiến triển trên điện quang chia làm 4 giai đoạn. Nhưng cũng có thể không phải lúc nào cũng gặp đủ cả bốn giai đoạn trên.

Vị trí của thoái hoá xương sụn cũng rất khác nhau. Thường th́, nó nằm trên lồi cầu trong, rất hiếm nằm ở lồi cầu ngoài, bánh chè, rănh bánh chè. Bệnh này bao giờ cũng thấy ở vùng xương sụn tiếp xúc.

 

Điều trị

Có nhiều các tiêu chuẩn cần phải xét:

Đầu tiên phải khu trú tổn thương, để xem nó ở vùng chịu lực hay không. Tiếp theo cần phải đánh giá h́nh thái thương tổn và giai đoạn tiến triển, xem có tiến triển thành sẹo không. So sánh tuổi xương và tuổi thực tế, để tính toán.

 

Điều trị không phẫu thuât

Khi có triệu chứng lâm sàng cũng như điện quang, người ta đưa ra bài tập thể thao thích hợp, giảm bớt trọng lượng, chỉnh lại trục trọng tâm cho gối,...

Giảm gánh nặng một phần cho khớp gối trong nhiều tháng. Bất động gối bằng  nẹp (genouillère) rất cần thiết cho những trẻ em hiếu động, cũng như là những thương tổn nằm ở vùng quan trọng

 

Điều trị phẫu thuật

Nhiều kỹ thuật có thể áp dụng :

 

Lấy bỏ mảnh xương

 Nhờ nội soi khớp có thể phá bỏ "tổ" của mảnh xương sụn để lấy  nó ra, nếu nó đă tự do trong khớp th́ chỉ việc lấy bỏ nó  khỏi khớp. Đây là can thiệp ít sang chấn, đơn giản, nhanh . Nhưng nó để lại chỗ hổng trong xương tạo nên nguy cơ hỏng sụn khớp sau này đưa tới thoái hoá. Nguy cơ này càng lớn khi viêm xương sụn xảy ra trên một diện rộng, hay nó nằm ở vùng chịu lực hoặc  nó nằm ở  lồi cầu ngoài.

Khoan kích thích

 Nhờ nội soi, khoan những lỗ nhỏ xuyên qua mảnh xương sụn gần bong cho tới tận xương để cho chảy máu, với mục đích là đem lại sự nuôi dưỡng cho mảnh xương sụn. Phương pháp này  hay áp dụng cho trẻ tuổi đang lớn, sau khi điều trị nội khoa thất bại nhưng mảnh xương vẫn c̣n dính với xương.

Cố định

 Nó cố định mảnh rời vào vị trí của chỗ bong bằng vis. Phương pháp thất bại  khi không có sự liền xương, hay hoại tử mảnh xương.

 

Ghép sụn khớp

Là lấy những mẩu xương sụn nhỏ ở vùng không quan trọng ghép vào hốc viêm xương sụn, gọi là phương pháp xếp h́nh "mosaïc plastie" .

 Phẫu thuật này hơi mất thời gian, phải cấm bệnh nhân đi và tỳ cho tới khi xương ở mảnh ghép liền. Cho tới nay, kết quả lâu dài của phương pháp đặc biệt khả năng pḥng ngừa thoái hoá khớp vẫn c̣n chưa rơ ràng.

 

Ghép tế bào sụn (chondrocytes)

Vẫn c̣n trong giai đoạn thực nghiệm: cấy tế bào sụn của bệnh nhân, sau đó đặt lại vào hốc viêm xương sụn

 

Viêm xương sụn ở gối nói chung là một bệnh lành tính, đặc biệt là ở trẻ nhỏ và trẻ mới lớn. Ở người lớn vấn đề điều trị c̣n nhiều khó khăn.

 

Quay lại mục lục